GIÁO XỨ TRUNG CHÂU – GIÁO HẠT KIÊN CHÍNH
Giáo họ Trung Châu được thành lập từ năm 1912 (nhâm sửu). Lúc đầu thành lập trực thuộc giáo xứ Tư Khẩn (Xã Hải Châu, Hải Hậu, Nam Định),nay là giáo xứ Trung Châu 2014 thuộc thị trấn Thịnh Long, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định.
Theo truyền thuyết từ xa xưa, nơi đây là một vùng bãi bồi do phù xa bờ biển vịnh Bắc Bộ và sông Ninh Cơ bồi đắp. Vào khoảng năm 1830 nơi đây với cánh đồng phù Sa mầu mỡ. Phía nam có một cồn cát lớn nổi lên trên được gọi là Nam Cồn (nay là thôn Nam Cồn, thị trấn Thịnh Long). Vì được thiên nhiên ưu đãi ruộng đất phì nhiêu mầu mỡ, dân cư phát triển nhanh nên cái tên làng Trung Châu cũng được gọi từ đó.
Vào khoảng năm 1850 – 1900, dân cư từ khắp các vùng chuyển cư về đây lập nghiệp đốt phá, chung xây để trồng lúa, trồng cói, trồng dâu nuôi tằm và làm nghề đánh bắt cá biển, số dân cư chuyển về đây phần lớn là người từ Tang Điền, Kiên Chính, Văn Lý, Xương Điền, Tứ Trùng, Quần Phương, An Đạo, mà phần lớn là người theo đạo Thiên Chúa.
Đến năm 1910, các ngài đã họp bàn và đồng tâm đệ đơn xin được thành lập giáo họ. Đến năm 1912 được Bề Trên chấp nhận cho phép thành lập, lấy tên là Giáo Họ Trung Châu và nhận thánh Fanxicô Xaviê làm Bổn Mạng, lễ kính vào ngày 3/12 hàng năm.
Giáo họ Trung Châu khi mới thành lập, có tổng diện tích 11 cây số vuông, phía đông giáp họ Cồn Vành (Cồn Tròn) nay là nhà xứ long Châu, phía tây giáp họ Sa Châu, nay là nhà xứ Thịnh Long, phía Nam giáp bờ biển Vịnh Bắc Bộ. Phía Bắc giáp sông Múc chảy qua cống cao ra sông Ninh Cơ đổ ra biển.
Để có nơi sớm hôm cầu nguyện với sự đoàn kết nhất trí muôn người như một cùng với lời cầu nguyện thiết tha, theo sự chỉ dẫn của cha chánh xứ, chỉ sau một thời gian ngắn, được sự hưởng ứng đóng góp của Tân Ban Hành Giáo và toàn thể cộng đoàn giáo họ, một ngôi nhà nguyện được xây dựng với chiều dài 19m, rộng 7m, tường xây gạch, mái lợp cỏ, được sự ủy nhiệm của cha chánh xứ, cụ phó Giáo cùng với Tân ban hành giáo và cộng đoàn chung tay xây dựng.
Năm 1936, giáo họ Cồn Vành ( cồn Tròn) được Đức Cha Đaminh Hồ Ngọc Cẩn đương kim giám mục Bùi Chu thăng lên hàng Giáo Xứ lấy tên là giáo xứ Long Châu, giáo họ Trung Châu được cắt về giáo xứ Long Châu từ đó.
Vì được thiên nhiên ưu đãi, ruộng đất phì nhiêu mầu mỡ, giáo họ Trung Châu không ngừng phát triển và tăng dân số, nên một nhà thơ nào đó đã sáng tác bài thơ nói về Làng Trung Châu. Xin được trích đoạn như sau:
Làng Trung Châu thuộc khu Văn Lý
Đất phì nhiêu phong thể dân đông.
Ba trăm chín tám đàn ông
Sáu trăm mười sáu mẫu đồng tốt tươi.
Kiểu danh thắng làm nơi đáng kể.
Trong sông Đào ngoài kế biển khơi
Thịnh Long uốn khúc chơi vơi
Sa Châu lóng lánh tuyệt vời là xinh
Về đạo lý dân tình mến chuộng
Nhờ Bề Trên khấn tụng tâm suy
Thấy mảnh đất Trung Châu Nam Cồn tốt đẹp. Luôn phát triển về mọi mặt, nên dân cư từ các vùng phụ cận chuyển về đây lập nghiệp ngày càng đông, nên đối với ngôi nhà nguyện ngày càng nhỏ bé lại.
Năm 1937 – 1939, theo sự chỉ dẫn của cha Giuse Hoàng Sinh Huy, đương kim chánh xứ Long Châu cùng với sự đóng góp nỗ lực của ban hành giáo và cộng đoàn, tới năm 1940 được Đức Cha Giáo Phận cho phép giáo họ khởi công xây dựng ngôi thánh đường mới: chiều dài 38m, rộng 12m, Năm 1943 hoàn thành.
Trong những năm kế tiếp theo, truyền thuyết ghi lại, một người giáo dân trong giáo họ đi biển đón nhận được bà thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu trôi trên biển đưa về dâng cúng cho giáo họ và nhận ngài làm quan thầy Hội Khấn, lễ kính hàng năm vào ngày 1/10 cho đến năm 1954, đồng bào di cư vào Nam, các đoàn hội tan rã, hội Khấn cũng không còn duy trì được nữa, từ đó Giáo họ nhận Ngài làm Quan Thầy Đệ Nhị và duy trì cho đến ngày nay.
Năm 1989 – 1990, được sự quan tâm giúp đỡ của cha Quản Xứ Đaminh Trân Đức Tâm, giáo họ trình đơn lên Tòa Giám Mục, được Đức Cha Giuse Vũ Duy Nhất đương kim giám mục Bùi Chu ban sắc Rosa cho giáo họ, từ đó giáo họ có thêm một lễ kính sắc Rosa vào Chúa Nhật đầu tháng 10 hàng năm.
Ngôi thánh đường giáo họ xây dựng từ năm 1943, đã trải qua bao thời gian mưa bão và do sự cố của chiến tranh bom đạn nên đã xuống cấp trầm trọng, mặc dù đã được tu sửa nhiều lần. Đến năm 1994 cha quản xứ Tôma Phạm Văn Phương gợi ý với ban hành giáo và cộng đoàn để có hướng tái thiết lại ngôi thánh đường cũ đã xuống cấp.
Năm 1995 cả cộng đoàn giáo họ cùng với ban hành giáo họp bàn theo sự hướng dẫn chủ trì của cha quản xứ, kết quả muôn người như một đồng tâm góp công góp tiền để chuẩn bị cho việc tái thiết thánh đường.
Đến năm 1998 – 1999 giáo họ lập đơn trình lên tòa giám mục và chính quyền các cấp xin được hạ giải thánh đường cũ và xây dựng ngôi thánh đường mới như này nay.
Năm 2000 được Tòa Giám Mục Phê chuẩn và các cấp chính quyền cấp giấy phép. Ngày 26/5/2000, lễ hạ giải được cử hành và chỉ sau 2 tuần lễ việc tháo rỡ và giải phóng mặt bằng được hoàn thiện để chuẩn bị cho việc khởi công xây dựng ngôi thánh đường mới.
12/6/2000 lễ khởi công đặt viên đá đầu tiên cho nền móng công trình được cử hành do cha quản hạt, cha xứ cùng quý cha đồng tế, sau thánh lễ là nghi thức đặt viên đá đầu tiên, được đông đảo cộng đoàn và các cấp chính quyền cũng như đại diện cho các ân thân nhân trong nước và Hải Ngoại tham dự, sau lễ khởi công, tiếp đến phần xây đúc và thi công theo từng công đoạn và thời gian, ngày 1/10/2003 thánh lễ thượng vì được cử hành.
16/10/2007 cả cộng đoàn giáo họ hân hoan đón mừng Đức Cha Giuse Hoàng Văn Tiệm đương kim giám mục Bùi Chu về cắt băng khánh thành ngôi thánh đường mới của giáo họ Trung Châu nay là giáo xứ Trung Châu sau 7 năm thi công và xây dựng nay đã hoàn thành, tham dự lễ cắt băng cùng với Đức Cha, có cha Quản Hạt, cha xứ và quý cha trong và ngoài giáo phận.
Thánh đường giáo xứ Trung Châu hiện tại có chiều dài là 50 m, rộng 16m, cao 17m, ba tháp chuông, tháp chính cao 38m, 2 tháp cạnh cao 28m.
Cũng trong năm 2007 giáo họ Trung Châu đã được ghi trong bản đồ giáo phận và đức cha giáo phận thăng lên hàng giáo xứ ngang hàng với các giáo xứ trong giáo phận. Cũng trong năm 2007 một ngôi nhà có chiều dài 27m, rộng 6m được xây dựng. Đến năm 2009 một thánh đài tượng đá Đức Mẹ Mân Côi được hoàn thiện.
Tạ ơn Thiên Chúa quan phòng, qua lời chuyển cầu của Mẹ Maria Rất Thánh Mân Côi và các thánh bổn mạng, ngày 13/12/2010 Tòa Giám Mục Bùi Chu đã chính thức bổ nhiệm cha cố Giuse Nguyễn Đức Dung về làm cha xứ Tiên Khởi giáo xứ Trung Châu, năm 2011 cha xứ cùng với ban điều hành giáo xứ và cộng đoàn khởi công xây dựng Trung Tâm Mục Vụ Giáo Xứ có tổng diện tích là 212m2, và hoàn thành tầng 1, cũng năm 2011, nhờ cha cổ vũ và nhờ sự giúp đỡ của ân nhân Hải Ngoại, thánh đài thánh Fanxicô Xaviê khởi công xây dựng và hoàn thành, tới tháng 9/2012, vì sức khỏe, nên cha Cố Giuse Nguyễn Đức Dung đã xin Đức Cha Giáo Phận cho được nghỉ hưu, và đã được đức Cha chấp thuận để cha được nghỉ hưu, và trao quyền coi sóc giáo xứ Trung Châu cho cha Giuse Đinh Văn Viện từ đó đến nay.
Đến năm 2014 giáo xứ Trung Châu đã có 3 người con làm linh mục đang phục vụ tại Hải Ngoại, và một thầy chủng sinh Đại Chủng Viện Hà Nội:
- Cha Fanxicô Xaviê Bùi Văn Quyết (Mỹ)
- Cha Phêrô Nguyễn Văn Thắng (Pháp)
- Cha Giuse Nguyễn Văn Dũng (Mỹ)
- Thầy Phêrô Nguyễn Văn Chương (ĐCV Hà Nội)
Và có 5 Nữ Tu là:
- Sr. Maria Rosa Nguyễn Thị Sợi (dòng Mân Côi đã qua đời)
- Sr. Maria Ripsimina Bùi Thị Liễu (Mân Côi Bùi Chu)
- Sr. Maria Phaolo Mỹ Vũ Thị Sợi (Mân Côi Bùi Chu)
- Maria Bùi Thị Nhung (Tập sinh)
- Maria Phạm Thị Hương (Tập sinh Dòng Đa Minh Bắc Ninh)
Đến năm 2014, giáo xứ Trung Châu đã có tổng số hộ và nhân danh: 576 hộ, tương đương 2107 nhân danh.
DANH SÁCH CÁC CHA ĐÃ PHỤC VỤ GIÁO XỨ TRUNG CHÂU
- Cha cố Đaminh Trịnh Đức Hoành: 1927 - 1939
- Cha Giuse Hoàng Sinh Huy: 1939 – 1943
- Cha Giuse Phạm Xuân Thu: 1943 – 1944
- Cha Giuse Nguyễn Thế Vinh: 1944 – 1948
- Cha Tôma Nguyễn Đức Long: 1948 – 1953
- Cha Đaminh Nguyễn Xuân Huyên: 1953 – 1954
- Cha Vinhsơn Vũ Văn Chiêu: 1955 – 1956
- Cha Đaminh Trịnh Đức Hoành: 1956 – 1962
- Cha Micae Nguyễn Đình Nhã: 1962 – 1967
- Cha Đaminh Mai Xuân Đĩnh: 1967 – 1971
- Cha Đaminh Trân Đức Tâm: 1971 – 1992
- Cha Tôma Phạm Văn Phương: 1992 – 1996
- Cha Micae Trần Minh Tiến: 1996 – 1998
- Cha Giuse Ngô Quang Tiện: 1998 – 2003
- Cha Giuse Phạm Văn Tứ: 2003 – 2006
- Cha Đaminh Phạm Ngọc Đỉnh: 2006 – 2007
- Cha Giuse Trần Văn Phán: 2007 – 2010
- Cha Giuse Nguyễn Đức Dung: 2010 – 2012
- Cha Giuse Đinh Văn Viện: 2012 - …
Vào khoảng năm 1850 – 1900, dân cư từ khắp các vùng chuyển cư về đây lập nghiệp đốt phá, chung xây để trồng lúa, trồng cói, trồng dâu nuôi tằm và làm nghề đánh bắt cá biển, số dân cư chuyển về đây phần lớn là người từ Tang Điền, Kiên Chính, Văn Lý, Xương Điền, Tứ Trùng, Quần Phương, An Đạo, mà phần lớn là người theo đạo Thiên Chúa.
Đến năm 1910, các ngài đã họp bàn và đồng tâm đệ đơn xin được thành lập giáo họ. Đến năm 1912 được Bề Trên chấp nhận cho phép thành lập, lấy tên là Giáo Họ Trung Châu và nhận thánh Fanxicô Xaviê làm Bổn Mạng, lễ kính vào ngày 3/12 hàng năm.
Giáo họ Trung Châu khi mới thành lập, có tổng diện tích 11 cây số vuông, phía đông giáp họ Cồn Vành (Cồn Tròn) nay là nhà xứ long Châu, phía tây giáp họ Sa Châu, nay là nhà xứ Thịnh Long, phía Nam giáp bờ biển Vịnh Bắc Bộ. Phía Bắc giáp sông Múc chảy qua cống cao ra sông Ninh Cơ đổ ra biển.
Để có nơi sớm hôm cầu nguyện với sự đoàn kết nhất trí muôn người như một cùng với lời cầu nguyện thiết tha, theo sự chỉ dẫn của cha chánh xứ, chỉ sau một thời gian ngắn, được sự hưởng ứng đóng góp của Tân Ban Hành Giáo và toàn thể cộng đoàn giáo họ, một ngôi nhà nguyện được xây dựng với chiều dài 19m, rộng 7m, tường xây gạch, mái lợp cỏ, được sự ủy nhiệm của cha chánh xứ, cụ phó Giáo cùng với Tân ban hành giáo và cộng đoàn chung tay xây dựng.
Năm 1936, giáo họ Cồn Vành ( cồn Tròn) được Đức Cha Đaminh Hồ Ngọc Cẩn đương kim giám mục Bùi Chu thăng lên hàng Giáo Xứ lấy tên là giáo xứ Long Châu, giáo họ Trung Châu được cắt về giáo xứ Long Châu từ đó.
Vì được thiên nhiên ưu đãi, ruộng đất phì nhiêu mầu mỡ, giáo họ Trung Châu không ngừng phát triển và tăng dân số, nên một nhà thơ nào đó đã sáng tác bài thơ nói về Làng Trung Châu. Xin được trích đoạn như sau:
Làng Trung Châu thuộc khu Văn Lý
Đất phì nhiêu phong thể dân đông.
Ba trăm chín tám đàn ông
Sáu trăm mười sáu mẫu đồng tốt tươi.
Kiểu danh thắng làm nơi đáng kể.
Trong sông Đào ngoài kế biển khơi
Thịnh Long uốn khúc chơi vơi
Sa Châu lóng lánh tuyệt vời là xinh
Về đạo lý dân tình mến chuộng
Nhờ Bề Trên khấn tụng tâm suy
Thấy mảnh đất Trung Châu Nam Cồn tốt đẹp. Luôn phát triển về mọi mặt, nên dân cư từ các vùng phụ cận chuyển về đây lập nghiệp ngày càng đông, nên đối với ngôi nhà nguyện ngày càng nhỏ bé lại.
Năm 1937 – 1939, theo sự chỉ dẫn của cha Giuse Hoàng Sinh Huy, đương kim chánh xứ Long Châu cùng với sự đóng góp nỗ lực của ban hành giáo và cộng đoàn, tới năm 1940 được Đức Cha Giáo Phận cho phép giáo họ khởi công xây dựng ngôi thánh đường mới: chiều dài 38m, rộng 12m, Năm 1943 hoàn thành.
Trong những năm kế tiếp theo, truyền thuyết ghi lại, một người giáo dân trong giáo họ đi biển đón nhận được bà thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu trôi trên biển đưa về dâng cúng cho giáo họ và nhận ngài làm quan thầy Hội Khấn, lễ kính hàng năm vào ngày 1/10 cho đến năm 1954, đồng bào di cư vào Nam, các đoàn hội tan rã, hội Khấn cũng không còn duy trì được nữa, từ đó Giáo họ nhận Ngài làm Quan Thầy Đệ Nhị và duy trì cho đến ngày nay.
Năm 1989 – 1990, được sự quan tâm giúp đỡ của cha Quản Xứ Đaminh Trân Đức Tâm, giáo họ trình đơn lên Tòa Giám Mục, được Đức Cha Giuse Vũ Duy Nhất đương kim giám mục Bùi Chu ban sắc Rosa cho giáo họ, từ đó giáo họ có thêm một lễ kính sắc Rosa vào Chúa Nhật đầu tháng 10 hàng năm.
Ngôi thánh đường giáo họ xây dựng từ năm 1943, đã trải qua bao thời gian mưa bão và do sự cố của chiến tranh bom đạn nên đã xuống cấp trầm trọng, mặc dù đã được tu sửa nhiều lần. Đến năm 1994 cha quản xứ Tôma Phạm Văn Phương gợi ý với ban hành giáo và cộng đoàn để có hướng tái thiết lại ngôi thánh đường cũ đã xuống cấp.
Năm 1995 cả cộng đoàn giáo họ cùng với ban hành giáo họp bàn theo sự hướng dẫn chủ trì của cha quản xứ, kết quả muôn người như một đồng tâm góp công góp tiền để chuẩn bị cho việc tái thiết thánh đường.
Đến năm 1998 – 1999 giáo họ lập đơn trình lên tòa giám mục và chính quyền các cấp xin được hạ giải thánh đường cũ và xây dựng ngôi thánh đường mới như này nay.
Năm 2000 được Tòa Giám Mục Phê chuẩn và các cấp chính quyền cấp giấy phép. Ngày 26/5/2000, lễ hạ giải được cử hành và chỉ sau 2 tuần lễ việc tháo rỡ và giải phóng mặt bằng được hoàn thiện để chuẩn bị cho việc khởi công xây dựng ngôi thánh đường mới.
12/6/2000 lễ khởi công đặt viên đá đầu tiên cho nền móng công trình được cử hành do cha quản hạt, cha xứ cùng quý cha đồng tế, sau thánh lễ là nghi thức đặt viên đá đầu tiên, được đông đảo cộng đoàn và các cấp chính quyền cũng như đại diện cho các ân thân nhân trong nước và Hải Ngoại tham dự, sau lễ khởi công, tiếp đến phần xây đúc và thi công theo từng công đoạn và thời gian, ngày 1/10/2003 thánh lễ thượng vì được cử hành.
16/10/2007 cả cộng đoàn giáo họ hân hoan đón mừng Đức Cha Giuse Hoàng Văn Tiệm đương kim giám mục Bùi Chu về cắt băng khánh thành ngôi thánh đường mới của giáo họ Trung Châu nay là giáo xứ Trung Châu sau 7 năm thi công và xây dựng nay đã hoàn thành, tham dự lễ cắt băng cùng với Đức Cha, có cha Quản Hạt, cha xứ và quý cha trong và ngoài giáo phận.
Thánh đường giáo xứ Trung Châu hiện tại có chiều dài là 50 m, rộng 16m, cao 17m, ba tháp chuông, tháp chính cao 38m, 2 tháp cạnh cao 28m.
Cũng trong năm 2007 giáo họ Trung Châu đã được ghi trong bản đồ giáo phận và đức cha giáo phận thăng lên hàng giáo xứ ngang hàng với các giáo xứ trong giáo phận. Cũng trong năm 2007 một ngôi nhà có chiều dài 27m, rộng 6m được xây dựng. Đến năm 2009 một thánh đài tượng đá Đức Mẹ Mân Côi được hoàn thiện.
Tạ ơn Thiên Chúa quan phòng, qua lời chuyển cầu của Mẹ Maria Rất Thánh Mân Côi và các thánh bổn mạng, ngày 13/12/2010 Tòa Giám Mục Bùi Chu đã chính thức bổ nhiệm cha cố Giuse Nguyễn Đức Dung về làm cha xứ Tiên Khởi giáo xứ Trung Châu, năm 2011 cha xứ cùng với ban điều hành giáo xứ và cộng đoàn khởi công xây dựng Trung Tâm Mục Vụ Giáo Xứ có tổng diện tích là 212m2, và hoàn thành tầng 1, cũng năm 2011, nhờ cha cổ vũ và nhờ sự giúp đỡ của ân nhân Hải Ngoại, thánh đài thánh Fanxicô Xaviê khởi công xây dựng và hoàn thành, tới tháng 9/2012, vì sức khỏe, nên cha Cố Giuse Nguyễn Đức Dung đã xin Đức Cha Giáo Phận cho được nghỉ hưu, và đã được đức Cha chấp thuận để cha được nghỉ hưu, và trao quyền coi sóc giáo xứ Trung Châu cho cha Giuse Đinh Văn Viện từ đó đến nay.
Đến năm 2014 giáo xứ Trung Châu đã có 3 người con làm linh mục đang phục vụ tại Hải Ngoại, và một thầy chủng sinh Đại Chủng Viện Hà Nội:
- Cha Fanxicô Xaviê Bùi Văn Quyết (Mỹ)
- Cha Phêrô Nguyễn Văn Thắng (Pháp)
- Cha Giuse Nguyễn Văn Dũng (Mỹ)
- Thầy Phêrô Nguyễn Văn Chương (ĐCV Hà Nội)
Và có 5 Nữ Tu là:
- Sr. Maria Rosa Nguyễn Thị Sợi (dòng Mân Côi đã qua đời)
- Sr. Maria Ripsimina Bùi Thị Liễu (Mân Côi Bùi Chu)
- Sr. Maria Phaolo Mỹ Vũ Thị Sợi (Mân Côi Bùi Chu)
- Maria Bùi Thị Nhung (Tập sinh)
- Maria Phạm Thị Hương (Tập sinh Dòng Đa Minh Bắc Ninh)
Đến năm 2014, giáo xứ Trung Châu đã có tổng số hộ và nhân danh: 576 hộ, tương đương 2107 nhân danh.
DANH SÁCH CÁC CHA ĐÃ PHỤC VỤ GIÁO XỨ TRUNG CHÂU
- Cha cố Đaminh Trịnh Đức Hoành: 1927 - 1939
- Cha Giuse Hoàng Sinh Huy: 1939 – 1943
- Cha Giuse Phạm Xuân Thu: 1943 – 1944
- Cha Giuse Nguyễn Thế Vinh: 1944 – 1948
- Cha Tôma Nguyễn Đức Long: 1948 – 1953
- Cha Đaminh Nguyễn Xuân Huyên: 1953 – 1954
- Cha Vinhsơn Vũ Văn Chiêu: 1955 – 1956
- Cha Đaminh Trịnh Đức Hoành: 1956 – 1962
- Cha Micae Nguyễn Đình Nhã: 1962 – 1967
- Cha Đaminh Mai Xuân Đĩnh: 1967 – 1971
- Cha Đaminh Trân Đức Tâm: 1971 – 1992
- Cha Tôma Phạm Văn Phương: 1992 – 1996
- Cha Micae Trần Minh Tiến: 1996 – 1998
- Cha Giuse Ngô Quang Tiện: 1998 – 2003
- Cha Giuse Phạm Văn Tứ: 2003 – 2006
- Cha Đaminh Phạm Ngọc Đỉnh: 2006 – 2007
- Cha Giuse Trần Văn Phán: 2007 – 2010
- Cha Giuse Nguyễn Đức Dung: 2010 – 2012
- Cha Giuse Đinh Văn Viện: 2012 - …
Nhận xét
Đăng nhận xét