Hầu như tất cả mọi người biết về ngài hay viết về ngài, đều phải nói đến ơn ban đặc biệt này nơi Đức cha.
Năm 1910, ngài là linh mục Việt Nam đầu tiên được cử vào dậy học trong trường Tiểu Chủng viện An Ninh, trước đó các giáo sư đều là các cha Tây, người ngoại quốc. Báo Nam Kỳ Địa Phận ghi lại: “Vốn từ trước, trong trường La tinh Huế, chưa có linh mục bổn quốc nào làm giáo sư, mới khỉ sự đầu tiên là cha Hồ Ngọc Cẩn. Người lãnh bổn phận mới nầy, thì càng thêm rạng ngời danh tiết: vì cha Bề trên Hòa cùng các đấng khác ở nhà trường đều phục tài cao đức cả. Việc giáo hóa học trò được phấn khởi tỏ tường..” (tr.295).
Năm 1910, ngài là linh mục Việt Nam đầu tiên được cử vào dậy học trong trường Tiểu Chủng viện An Ninh, trước đó các giáo sư đều là các cha Tây, người ngoại quốc. Báo Nam Kỳ Địa Phận ghi lại: “Vốn từ trước, trong trường La tinh Huế, chưa có linh mục bổn quốc nào làm giáo sư, mới khỉ sự đầu tiên là cha Hồ Ngọc Cẩn. Người lãnh bổn phận mới nầy, thì càng thêm rạng ngời danh tiết: vì cha Bề trên Hòa cùng các đấng khác ở nhà trường đều phục tài cao đức cả. Việc giáo hóa học trò được phấn khởi tỏ tường..” (tr.295).
Đặc biệt, khi còn là linh mục ở Huế, ngài được chọn đi họp Công đồng Đông Dương tại Hà Nội năm 1934 cùng với các nghị phụ Giám mục và một số linh mục, với chức vụ là chuyên viên soạn thảo văn kiện bằng La ngữ cho Công Đồng.
Trong dịp Đại hội Thánh Thể lần thứ 33, diễn ra từ ngày 3 đến mồng 7 tháng 2 năm 1937 tại Manila, trong số các giám mục diễn thuyết bằng nhiều ngôn ngữ khác, ngài được cử phát biểu trước toàn thể đại hội nhân danh Giáo hội Việt Nam. Báo Nam Kỳ Địa Phận có ghi lại toàn bản văn bài phát biểu của ngài, và kể lại như sau: “Quý hóa biết bao, cảm động biết bao! Giám mục Việt Nam xen hàng Giám mục vạn quốc. Đức cha nhà ta cũng dạn dĩ, kê miệng vào máy truyền thinh, giọng nói chậm rãi rõ ràng dễ nghe lắm. Nhưng có mình người annam hiểu mà thôi, kỳ dư chả hiểu, nhưng cũng vỗ tay khen ngợi. Ấy là hiểu ngầm!” (NKĐP, tháng 2 năm 1937; tr. 168).
Cha Chính Lục cũng khen ngợi ngài: “Có điều này, ai cũng phải chịu ngài tài giỏi: Những thư từ can hệ đến đâu, cả những bản quy luật cho các Dòng phải đệ Tòa Thánh, có bản dài đến 100 trang đánh máy, dù bằng tiếng Việt Nam, tiếng La tinh, tiếng Pháp thì ngài chỉ viết hoặc đánh máy lấy một lần, không phải ráp ra hay là dùng thơ ký nào! Họa hoàn mới bảo cha thơ ký trả lời giúp 2,3 thơ không can hệ mà thôi. Lại hết các thơ từ giấy má can hệ thì điều lưu công hàm bản đúp có thứ tự lớp lang cả... Ngài khôn ngoan, kiên nhẫn, thâm trầm, đạo hạnh, xả kỷ, vị tha, lại thông lọt các luật đạo luật đời, biết mỗi việc nào thuộc quyền Thánh Bộ nào bên Tòa Thánh; lại lý sự can tràng, nhất là ban đầu mới chia địa phận…”
Về cách thức làm việc của ngài, Cha Chính Lục kể tiếp: với Tòa Thánh và các Cha Dòng Đa Minh, nhất là ban đầu, và với người đời, nhiều thư từ tờ bồi phải viết đi viết lại hoặc phải trả lời rất là can hệ, vì thế suốt ngày đêm, trừ lúc ăn, lúc ngủ, còn là cứ làm việc một mình nơi bàn giấy; lúc vào giường còn cầm sách đọc cho tới khi rời tay mới tắt đèn. Hễ không ngủ được lại dậy làm việc, mà ban ngày không có ngủ bù”. (Gia sản Dòng tr.737)
Giáo sư Nguyễn Lý Tưởng trong tài liệu đã dẫn trên cũng viết: “Ngài là một nhà thông thái tại Đông Dương (Việt, Miên, Lào) thời bấy giờ. Cách đây hơn 100 năm mà ngài đã viết sách, viết báo, làm tự điển, soạn sách dậy về khoa học… Ngài có tài làm thơ, viết văn, diễn thuyết, có khi cao hứng thì đọc cả bài thơ lục bát thật dài…. Ngài rất thích dậy học và giảng giải bình dân, dễ hiểu nên học trò rất thích, nhất là các môn triết học, thần học, giáo lý… ngài giảng giải rất rõ ràng. Ngài giỏi cả Hán văn, Pháp văn, La tinh…; đọc sách đọc báo nhiều nên kiến thức của ngài rất uyên bác…“.
Nhiều người cho rằng số các đầu sách ngài trước tác phải nói đến con số 100. Trong số hơn 100 tác phẩm ấy, tại thư viện của Hội Dòng, chúng ta còn lưu giữ được khoảng 60 đầu sách, một số là bản in gốc, nhưng phần nhiều là bản photocopy và một vài cuốn chép tay.
Ngoài những tác phẩm được ấn hành, ngài còn là cộng tác viên xuất sắc cho các tờ báo như Nam Kỳ Địa Phận, Sacerdos Indonensis, Vì Chúa. Ngài còn sáng lập tờ Đa Minh bán nguyệt, lập nhà in Thánh Gia và nhà sách Đa Minh. Soạn giả Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên, trong cuốn Mục Lục Phân Tích Nam Kỳ Địa Phận, xuất bản năm 2003, nguyên chỉ kê khai đầu đề các bài viết của Đức cha trong báo Nam Kỳ Địa Phận từ năm 1913 đến năm 1944, cũng phải mất hơn 7 trang giấy với tên Hồ Ngọc Cẩn; và mất 5 trang nữa với những bút hiệu khác như Ngô Đồng Hành, Ngô Ký Ẩn, Ngô Ký Vãng, Ngô Trí Dược, Ngô Trí Lễ, Ngô Tương Ái…!
Nhận xét
Đăng nhận xét