Nói về sự ra đi của ngài, Cha Bùi Đức Sinh đã viết: “Sau 12 năm cai quản một giáo phận đông đúc, nhưng thiếu nhân tài vật lực, Đức cha Hồ bắt đầu suy nhược, lại mắc chứng suyễn kinh niên, nhất là về mùa đông thánh lạnh…”. (sđd tr. 274)
Quả thật chúng ta cũng được nghe nói nhiều về những vất vả gian nan của Đức cha trong những năm coi sóc địa phận. Nhiều cha già sống gần Đức cha cũng cho biết ngài chịu nhiều đau khổ, nhất là những năm cuối đời, và cả trên giường hấp hối. Đức cha qua đời vào tuổi 72 không kể được là thọ, nguyên do một phần tại bệnh tật của ngài, nhưng cũng có thể nói được rằng còn do những đau khổ tinh thần, những khó khăn phải chịu vào một thời điểm có nhiều biến chuyển, cả trên thế giới cũng như tại đất nước Việt Nam, và trong địa phận lúc bấy giờ.
Theo Cha cựu Bề trên Phạm Châu Diên viết trong sách của ngài, thì Đức cha trở bệnh nặng từ đầu mùa đông năm ấy, năm 1948. Những cơn ho kéo dài làm ngài mệt nhọc kiệt sức. Ngài chỉ bỏ làm lễ trước khi qua đời 3 ngày, nhưng vẫn ngồi tham dự thánh lễ. Ngày hôm trước, tức ngày 26-11-1948, Đức cha Nguyễn Bá Tòng là người bạn thân thiết đến thăm, ngài tỉnh lại khỏe khoắn, hai vị nói chuyện lâu hằng giờ… Nhưng sau đó ngài kiệt sức, lịm đi. Chiều tối ngài tỉnh lại và chịu bí tích Xức Dầu cách tỉnh táo và sốt sắng. Đức cha từ trần lúc 0g27 phút ngày 27-11-1948 tại Tòa Giám mục Bùi Chu, và được an táng trong thánh đường chính tòa Bùi Chu cho đến ngày nay.
Trên tấm bia phần mộ của ngài tại nhà thờ chánh tòa Bùi Chu, có ghi tóm tắt sự nghiệp, công ơn và tài đức của Đức cha bằng những hàng chữ như sau:
“THÔNG THÁI SIÊU QUẦN, TRƯỚC TÁC LINH TRĂM CUỐN SÁCH, SÁNG LẬP DÒNG RẤT THÁNH TRÁI TIM HUẾ (1923) VÀ DÒNG MÂN CÔI BÙI CHU (1946), CHÚA CHIÊN SỐT SẮNG, PHONG 80 LINH MỤC; CHUYÊN LUYỆN CHỦNG SINH, TU SĨ; LẬP HỘI CẦU NGUYỆN VÀ CÔNG GIÁO TIẾN HÀNH TRÊN BA VẠN; CỔ VÕ HỌC ĐẠO LÝ VÀ CHỊU CÁC BÍ TÍCH… TRÌNH ĐỘ GIÁO DÂN ĐÃ NÂNG CAO GẤP 10 LẦN”.
Quả thật chúng ta cũng được nghe nói nhiều về những vất vả gian nan của Đức cha trong những năm coi sóc địa phận. Nhiều cha già sống gần Đức cha cũng cho biết ngài chịu nhiều đau khổ, nhất là những năm cuối đời, và cả trên giường hấp hối. Đức cha qua đời vào tuổi 72 không kể được là thọ, nguyên do một phần tại bệnh tật của ngài, nhưng cũng có thể nói được rằng còn do những đau khổ tinh thần, những khó khăn phải chịu vào một thời điểm có nhiều biến chuyển, cả trên thế giới cũng như tại đất nước Việt Nam, và trong địa phận lúc bấy giờ.
Theo Cha cựu Bề trên Phạm Châu Diên viết trong sách của ngài, thì Đức cha trở bệnh nặng từ đầu mùa đông năm ấy, năm 1948. Những cơn ho kéo dài làm ngài mệt nhọc kiệt sức. Ngài chỉ bỏ làm lễ trước khi qua đời 3 ngày, nhưng vẫn ngồi tham dự thánh lễ. Ngày hôm trước, tức ngày 26-11-1948, Đức cha Nguyễn Bá Tòng là người bạn thân thiết đến thăm, ngài tỉnh lại khỏe khoắn, hai vị nói chuyện lâu hằng giờ… Nhưng sau đó ngài kiệt sức, lịm đi. Chiều tối ngài tỉnh lại và chịu bí tích Xức Dầu cách tỉnh táo và sốt sắng. Đức cha từ trần lúc 0g27 phút ngày 27-11-1948 tại Tòa Giám mục Bùi Chu, và được an táng trong thánh đường chính tòa Bùi Chu cho đến ngày nay.
Trên tấm bia phần mộ của ngài tại nhà thờ chánh tòa Bùi Chu, có ghi tóm tắt sự nghiệp, công ơn và tài đức của Đức cha bằng những hàng chữ như sau:
“THÔNG THÁI SIÊU QUẦN, TRƯỚC TÁC LINH TRĂM CUỐN SÁCH, SÁNG LẬP DÒNG RẤT THÁNH TRÁI TIM HUẾ (1923) VÀ DÒNG MÂN CÔI BÙI CHU (1946), CHÚA CHIÊN SỐT SẮNG, PHONG 80 LINH MỤC; CHUYÊN LUYỆN CHỦNG SINH, TU SĨ; LẬP HỘI CẦU NGUYỆN VÀ CÔNG GIÁO TIẾN HÀNH TRÊN BA VẠN; CỔ VÕ HỌC ĐẠO LÝ VÀ CHỊU CÁC BÍ TÍCH… TRÌNH ĐỘ GIÁO DÂN ĐÃ NÂNG CAO GẤP 10 LẦN”.
Nhận xét
Đăng nhận xét