Một trong những thao thức của Đức cha khi lên làm Giám mục là canh tân bậc tu trì trong địa phận, nhất là việc cải tổ các nhà Phước lên bậc nhà Dòng. Ý tưởng này manh nha có từ khi ngài đi dự Công đồng Đông Dương tại Hà Nội năm 1934, và khi lên làm Giám mục, lại càng thúc bách ngài hơn khi nhận thấy trong địa phận ngài có nhiều nhà phước chưa được cải tổ như ý Công đồng muốn. Về việc lập Dòng Mân Côi, chị em đã được nghe và học tập nhiều trong những khóa học hỏi về gia sản và linh đạo Dòng. Ở đây chúng ta chỉ nhắc sơ qua một vài chi tiết nhỏ liên quan đến đức cha chúng ta.
Điều trước hết, chúng ta không thể không nghĩ đến những gian nan vất vả Đức cha chúng ta phải chịu trong việc lập Dòng. Đã có rất nhiều thử thách và đau khổ. Ngài kiên nhẫn chịu đựng, âm thầm cầu nguyện, nhưng vẫn khôn ngoan bình tĩnh ứng xử trong các hoàn cảnh khó khăn. Chính ngài đã kể lại một trong những khó khăn ấy trong cuốn lịch sử dòng như sau: “Thật ban đầu, khi nghe tin Đức cha đã được phép Tòa Thánh lập một Dòng…, thì ai nấy cũng hoan nghinh, có nhiều chị em bởi các nhà cũng đã bàn đến việc vào Dòng, không nghe ai phản đối gì. Hay đâu cách ít lâu nghe bàn tán rằng: ‘Đức cha làm như thế là phá Dòng Ba của Cha Thánh’. Có kẻ nói dại rằng ‘Đức cha cố phá những nhà phước để đem tiền của ruộng nương các nhà về nhà Trung Linh hết!’. Họ bàn tán như thế là vì họ không đọc đến sách Công đồng Đông Dương, họ không xem đến mặt đơn Đức cha đã làm mà tâu Tòa Thánh xin phép lập Dòng là thế nào… Nếu đáng trách như thế thì Tòa Thánh trách trước hết. Song Tòa Thánh chẳng trách gì, lại ban phép lập Dòng mới, có tên mới, để sửa lại hai Dòng cũ vào lề lối nhà Dòng chính thức… Bảo làm như thế thì phá Dòng Ba. Có phá gì đâu! chỉ đưa Dòng Ba vào lề lối nhà dòng chính thức…” (Trích Gia Sản Dòng tr. 694-696,và những trang tiếp theo). Và dĩ nhiên còn rất nhiều gian truân vất vả khác nữa.
Trước những “lời bàn tán” này, và cả những chống đối công khai, ngài vẫn kiên nhẫn chịu đựng và tin tưởng nơi Chúa. Theo lời kể của các chị cao niên tiên khởi của Dòng, mỗi khi Đức cha sang thăm các chú trường Thử Trung Linh, thì ngài – Đức cha cũng sang thăm các chị em bên nhà Phước Trung Linh ngay bên cạnh, là nơi đã được chuẩn bị để lập Dòng. Đôi khi ngài cũng hay đi ghé sang Liên Thủy, gồm nhà Liên Nội và Liên Ngoại nằm gần tòa giám mục. Ngài thường an ủi khuyến khích các chị đừng nản lòng, đừng lo lắng, cứ vững tâm trông cậy vào Chúa… “Nếu các con nghe thấy vị nào nói ngược nói xuôi về Dòng thì đừng nản chí, một phải cứ an tâm tu trì, vì cha là người rất mực chịu đựng… cha chịu đựng thay cho chúng con” (Tưởng niệm và Tri ân, tr.158);rồingài giải thích cho các chị hiểu về bậc Dòng khác với nhà phước thế nào, về mục đích của Dòng mới… Ngài thường nói với các các chị: “Thầy chỉ tạ ơn Chúa vì hồng ân Chúa ban. Những gì con cái trong nhà hay bên ngoài có phê bình chỉ trích thì không lạ, phải có vậy mới có ngày vinh quang. Phải có đau khổ mới có triều thiên. Các con cứ tin như vậy…” (trích Tưởng Niệm và Tri ân, 1998, tr. 145). Mỗi lần ngài sang thì cả nhà họp lại, ngồi xung quanh Đức cha, “đám bé học trò được ngồi chiếu dưới chân Đức cha mà không được xì xèo động đạc gì…!”
Về vật chất, để chuẩn bị, ngài cho xây ngôi nhà tầng. Công việc khởi sự vào năm 1942, đến cuối năm 1943 mới xong. Đức cha định ngày 16-7-1944 thì làm phép khánh thành nhà mới.
Nói đến các cha đã góp công sức về tinh thần và vật chất và tiếp tay với Đức cha vào những ngày ban đầu lập Dòng thì phải kể: “… Khi ấy có Cha Tràng Cung, hiện khi ấy ngài làm bề trên tràng Thử và cũng coi nhà phước Dòng Ba ở Trung Linh… vốn người đã nhiệt thành về sự ấy (việc lập Dòng)…, nên khi người biết Đức cha đã làm đơn tâu xin Tòa Thánh lập Dòng nữ, thì người cho chị em Trung Linh hay. Chị em nghe vậy thì lấy làm mừng và mong chóng được, thì chị em cũng xin vào Dòng hết… Khi ấy Cha Vận coi xứ Trung Linh… Cha Vận cũng cùng một lòng như Cha Cung… Cha già Hội hứa cho nhà Dòng một cái chuông, thợ Kiên Lao đúc. Đức cha cho Cha Hoàn làm giáo sư tràng Thử cùng làm cha linh hồn cho chị em Dòng luôn thể. Đến tháng 8-1945, đức Cha đặt Cha Vận làm bề trên tràng Thử, thì cho Cha Hưởng làm cha xứ Trung Linh. Cha Hưởng đối với nhà Dòng chẳng kém gì Cha Vận…” (Gia sản Dòng tr. 686-687).
Trong khi đó, ngài soạn luật Dòng, các sách cần thiết để huấn luyện các chị bước vào bậc Dòng. Thường ngài viết tay, trao cho bà Tập lúc ấy là bà Dòng Mến Thánh Giá bên Phát Diệm ngài xin sang giúp. Bà Tập đọc cho các chị em chép trong những giờ học… Khi có dịp, ngài sang dậy và cắt nghĩa rộng thêm cho các chị.
Và đến ngày giờ Chúa đáp ứng nỗi chờ mong và lời nguyện cầu của Đức cha. Ngài kể: “May thay, Tòa Thánh vừa nhận được thư Đức cha thì phúc thư lại mà rằng: Chiếu theo bức thư Đức Thầy gửi ngày mồng 10 Juniô mà xin phép lập một Dòng nữ như ý thỉnh cầu.. Đức Cha nhận được thư ấy một ngày kia trong tháng Aout, khi đã chiều tối, thì đưa tin cho chị em biết ngay mà mừng. Ai nói cho xiết, chị em nhà Trung Linh khi được tin Tòa Thánh ban phép lập Dòng, thì ai nấy vui mừng biết là chừng nào… Vậy Đức cha định ngày mồng 8 tháng Septembre sẽ làm lễ tuyên sắc lập Dòng.” (Gia sản Dòng tr. 690) “Và chắc chắn là niềm vui mừng “ai nói cho xiết” của chị em nếu kể là 1, thì của Đức cha phải hiểu là 10!”.
Đức Cha kể tiếp: “Ngày mồng 6, Đức cha sang tràng Thử Trung Linh giúp các cậu cấm phòng khai tràng, thì luôn tiện cũng giảng giúp chị em cấm phòng tháng ngày mồng 7 để dọn mình vào Dòng chánh thức ngày mồng 8 sau khi đã rao sắc lập dòng. Cả đêm ngày mồng 7 rạng ngày mồng 8 mưa to gió lớn, ra như Chúa bảo chị em nhớ lại: Khi xưa Chúa sắp rao lề luật trên núi Sinai, thì Chúa làm sấm sét vang trời dậy đất, cho dân tỉnh ngộ. Khi Chúa Thánh Thần toan hiện xuống thì cũng khiến gió thổi mạnh, để đánh thức các thánh Tông đồ càng dọn mình chăm chỉ hơn nữa. Trận bão này cũng bảo chị em như vậy. Nhưng sang ngày mồng 8 bớt mưa bớt gió. Đức cha sang được bên Dòng bằng yên, không gì ngăn trở. Đức cha đã làm lễ, giảng, rồi rao sắc lập Dòng “Con Cái Đức Bà Mân Côi Bùi Chu” tại nhà nguyện Dòng ở Trung Linh. Sáng ấy là đúng ngày Chúa Nhật…” (Gia sản Dòng tr. 692).
Và ngay sau đó, ngày 21-11-1946 có lớp tập đầu tiên gồm 17 chị, phần đông thuộc nhà Trung Linh, và một vài chị nhà Kiên Lao và Bùi Chu. Chính Đức cha sang khảo hạch cho 17 chị vào nhà Tập; đồng thời có 13 chị vào Dự tu. Đức cha soạn thảo các sách huấn luyện các chị bước vào bậc Dòng. Lớp nhà Tập này sau được 7 chị khấn lần đầu vào ngày 7-12-1947, cũng do chính ngài sang khảo khấn. Trong số 7 chị tiên khởi của Dòng ấy, đứng đầu là bà Catharina Nguyễn Thị Huệ, sau làm Mẹ Bề trên tiên khởi của Dòng. 7 chị khác được dự định cho khấn vào ngày 21-11-1948. Nhưng vào ngày đó, Đức cha đã mệt lắm rồi, không sang khảo khấn và nhận lời khấn cho các chị được, vì ngày 27-11-1948, một tuần sau đó, ngài được Chúa gọi về.
Điều trước hết, chúng ta không thể không nghĩ đến những gian nan vất vả Đức cha chúng ta phải chịu trong việc lập Dòng. Đã có rất nhiều thử thách và đau khổ. Ngài kiên nhẫn chịu đựng, âm thầm cầu nguyện, nhưng vẫn khôn ngoan bình tĩnh ứng xử trong các hoàn cảnh khó khăn. Chính ngài đã kể lại một trong những khó khăn ấy trong cuốn lịch sử dòng như sau: “Thật ban đầu, khi nghe tin Đức cha đã được phép Tòa Thánh lập một Dòng…, thì ai nấy cũng hoan nghinh, có nhiều chị em bởi các nhà cũng đã bàn đến việc vào Dòng, không nghe ai phản đối gì. Hay đâu cách ít lâu nghe bàn tán rằng: ‘Đức cha làm như thế là phá Dòng Ba của Cha Thánh’. Có kẻ nói dại rằng ‘Đức cha cố phá những nhà phước để đem tiền của ruộng nương các nhà về nhà Trung Linh hết!’. Họ bàn tán như thế là vì họ không đọc đến sách Công đồng Đông Dương, họ không xem đến mặt đơn Đức cha đã làm mà tâu Tòa Thánh xin phép lập Dòng là thế nào… Nếu đáng trách như thế thì Tòa Thánh trách trước hết. Song Tòa Thánh chẳng trách gì, lại ban phép lập Dòng mới, có tên mới, để sửa lại hai Dòng cũ vào lề lối nhà Dòng chính thức… Bảo làm như thế thì phá Dòng Ba. Có phá gì đâu! chỉ đưa Dòng Ba vào lề lối nhà dòng chính thức…” (Trích Gia Sản Dòng tr. 694-696,và những trang tiếp theo). Và dĩ nhiên còn rất nhiều gian truân vất vả khác nữa.
Trước những “lời bàn tán” này, và cả những chống đối công khai, ngài vẫn kiên nhẫn chịu đựng và tin tưởng nơi Chúa. Theo lời kể của các chị cao niên tiên khởi của Dòng, mỗi khi Đức cha sang thăm các chú trường Thử Trung Linh, thì ngài – Đức cha cũng sang thăm các chị em bên nhà Phước Trung Linh ngay bên cạnh, là nơi đã được chuẩn bị để lập Dòng. Đôi khi ngài cũng hay đi ghé sang Liên Thủy, gồm nhà Liên Nội và Liên Ngoại nằm gần tòa giám mục. Ngài thường an ủi khuyến khích các chị đừng nản lòng, đừng lo lắng, cứ vững tâm trông cậy vào Chúa… “Nếu các con nghe thấy vị nào nói ngược nói xuôi về Dòng thì đừng nản chí, một phải cứ an tâm tu trì, vì cha là người rất mực chịu đựng… cha chịu đựng thay cho chúng con” (Tưởng niệm và Tri ân, tr.158);rồingài giải thích cho các chị hiểu về bậc Dòng khác với nhà phước thế nào, về mục đích của Dòng mới… Ngài thường nói với các các chị: “Thầy chỉ tạ ơn Chúa vì hồng ân Chúa ban. Những gì con cái trong nhà hay bên ngoài có phê bình chỉ trích thì không lạ, phải có vậy mới có ngày vinh quang. Phải có đau khổ mới có triều thiên. Các con cứ tin như vậy…” (trích Tưởng Niệm và Tri ân, 1998, tr. 145). Mỗi lần ngài sang thì cả nhà họp lại, ngồi xung quanh Đức cha, “đám bé học trò được ngồi chiếu dưới chân Đức cha mà không được xì xèo động đạc gì…!”
Về vật chất, để chuẩn bị, ngài cho xây ngôi nhà tầng. Công việc khởi sự vào năm 1942, đến cuối năm 1943 mới xong. Đức cha định ngày 16-7-1944 thì làm phép khánh thành nhà mới.
Nói đến các cha đã góp công sức về tinh thần và vật chất và tiếp tay với Đức cha vào những ngày ban đầu lập Dòng thì phải kể: “… Khi ấy có Cha Tràng Cung, hiện khi ấy ngài làm bề trên tràng Thử và cũng coi nhà phước Dòng Ba ở Trung Linh… vốn người đã nhiệt thành về sự ấy (việc lập Dòng)…, nên khi người biết Đức cha đã làm đơn tâu xin Tòa Thánh lập Dòng nữ, thì người cho chị em Trung Linh hay. Chị em nghe vậy thì lấy làm mừng và mong chóng được, thì chị em cũng xin vào Dòng hết… Khi ấy Cha Vận coi xứ Trung Linh… Cha Vận cũng cùng một lòng như Cha Cung… Cha già Hội hứa cho nhà Dòng một cái chuông, thợ Kiên Lao đúc. Đức cha cho Cha Hoàn làm giáo sư tràng Thử cùng làm cha linh hồn cho chị em Dòng luôn thể. Đến tháng 8-1945, đức Cha đặt Cha Vận làm bề trên tràng Thử, thì cho Cha Hưởng làm cha xứ Trung Linh. Cha Hưởng đối với nhà Dòng chẳng kém gì Cha Vận…” (Gia sản Dòng tr. 686-687).
Trong khi đó, ngài soạn luật Dòng, các sách cần thiết để huấn luyện các chị bước vào bậc Dòng. Thường ngài viết tay, trao cho bà Tập lúc ấy là bà Dòng Mến Thánh Giá bên Phát Diệm ngài xin sang giúp. Bà Tập đọc cho các chị em chép trong những giờ học… Khi có dịp, ngài sang dậy và cắt nghĩa rộng thêm cho các chị.
Và đến ngày giờ Chúa đáp ứng nỗi chờ mong và lời nguyện cầu của Đức cha. Ngài kể: “May thay, Tòa Thánh vừa nhận được thư Đức cha thì phúc thư lại mà rằng: Chiếu theo bức thư Đức Thầy gửi ngày mồng 10 Juniô mà xin phép lập một Dòng nữ như ý thỉnh cầu.. Đức Cha nhận được thư ấy một ngày kia trong tháng Aout, khi đã chiều tối, thì đưa tin cho chị em biết ngay mà mừng. Ai nói cho xiết, chị em nhà Trung Linh khi được tin Tòa Thánh ban phép lập Dòng, thì ai nấy vui mừng biết là chừng nào… Vậy Đức cha định ngày mồng 8 tháng Septembre sẽ làm lễ tuyên sắc lập Dòng.” (Gia sản Dòng tr. 690) “Và chắc chắn là niềm vui mừng “ai nói cho xiết” của chị em nếu kể là 1, thì của Đức cha phải hiểu là 10!”.
Đức Cha kể tiếp: “Ngày mồng 6, Đức cha sang tràng Thử Trung Linh giúp các cậu cấm phòng khai tràng, thì luôn tiện cũng giảng giúp chị em cấm phòng tháng ngày mồng 7 để dọn mình vào Dòng chánh thức ngày mồng 8 sau khi đã rao sắc lập dòng. Cả đêm ngày mồng 7 rạng ngày mồng 8 mưa to gió lớn, ra như Chúa bảo chị em nhớ lại: Khi xưa Chúa sắp rao lề luật trên núi Sinai, thì Chúa làm sấm sét vang trời dậy đất, cho dân tỉnh ngộ. Khi Chúa Thánh Thần toan hiện xuống thì cũng khiến gió thổi mạnh, để đánh thức các thánh Tông đồ càng dọn mình chăm chỉ hơn nữa. Trận bão này cũng bảo chị em như vậy. Nhưng sang ngày mồng 8 bớt mưa bớt gió. Đức cha sang được bên Dòng bằng yên, không gì ngăn trở. Đức cha đã làm lễ, giảng, rồi rao sắc lập Dòng “Con Cái Đức Bà Mân Côi Bùi Chu” tại nhà nguyện Dòng ở Trung Linh. Sáng ấy là đúng ngày Chúa Nhật…” (Gia sản Dòng tr. 692).
Và ngay sau đó, ngày 21-11-1946 có lớp tập đầu tiên gồm 17 chị, phần đông thuộc nhà Trung Linh, và một vài chị nhà Kiên Lao và Bùi Chu. Chính Đức cha sang khảo hạch cho 17 chị vào nhà Tập; đồng thời có 13 chị vào Dự tu. Đức cha soạn thảo các sách huấn luyện các chị bước vào bậc Dòng. Lớp nhà Tập này sau được 7 chị khấn lần đầu vào ngày 7-12-1947, cũng do chính ngài sang khảo khấn. Trong số 7 chị tiên khởi của Dòng ấy, đứng đầu là bà Catharina Nguyễn Thị Huệ, sau làm Mẹ Bề trên tiên khởi của Dòng. 7 chị khác được dự định cho khấn vào ngày 21-11-1948. Nhưng vào ngày đó, Đức cha đã mệt lắm rồi, không sang khảo khấn và nhận lời khấn cho các chị được, vì ngày 27-11-1948, một tuần sau đó, ngài được Chúa gọi về.
Nhận xét
Đăng nhận xét